 |
|
HỒ TRUNG
TÚ
LTS: Đây là bài
Viết của Tác giả HỒ TRUNG TÚ về lịch sử h́nh thành các
Ḍng Họ QUẢNG NAM. Bài viết rất công phu và có sự nghiên cứu tỉ mỉ
(đúng hay
sai trong lập luận nầy, cần phải có thêm các nghiên cứu khác hoặc bổ
túc của
các nhà Sử Học). Đây là một Đặc San Quảng Nam, những ǵ liên quan tới
Xứ Quảng
của chúng tôi, mà chúng tôi t́m thấy được là chúng tôi đưa lên để bà
con chúng
tôi đọc để biết về cội nguồn của
ḿnh…
Sau bài "Trăm năm Mỹ
sơn, nh́n lại" chúng
tôi nhận được có nhiều ư kiến từ ủng hộ cho đến phản ứng gay gắt, cảm
thấy như
bị xúc phạm khi nói rằng người xứ Đàng Trong có ít nhất 50% huyết thống
về dân
tộc Chàm. Mọi chuyện tất nhiên không thể giải quyết bằng một bài báo,
nó cần
thời gian với sự công phu không thể của một người. Ở đây xin được trao
đổi
những điều cần phải nói thêm cho rơ.
Có một thực tế
diễn ra dưới thời các vua Nguyễn là: Sau những năm dài chiến
tranh, loạn lạc (200 năm phân tranh Trịnh-Nguyễn rồi cuộc nỗi dậy của
nhà Tây
Sơn, chiến tranh giữa chúa Nguyễn với Tây Sơn, Tây Sơn với những cuộc
bắc tiến
và với nhà Thanh), làng xóm trở lại cảnh thanh b́nh. Những lễ tục được
phục
hồi, các ḍng họ cũng bắt đầu chú ư đến gốc gác, phổ hệ. Một phong trào
viết
gia phả nỗi lên khắp nơi, phát sinh môt sự tranh dành tộc to, họ lớn;
tranh
nhau tiền hiền khai canh, lập ấp. Ai cũng muốn ḿnh là người đầu tiên
đặt chân
lên mảnh đất làng nầy từ 1471 nên số đông các gia phả Quảng Nam đều
ghi: Ngài
(Họ) Quư Công đă theo vua Lê Thánh Tông b́nh Chiêm năm Hồng Đức nhị
niên định
cư ở lại làng...từ thời đó. Nhưng số thứ tự các đời th́ thường là điều
không
thể tùy tiện mà dựng nên được. Chính v́ thế các gia phả nầy để lộ ra
những mâu
thuẩn khó có thể trả lời. Sau những thống kê các gia phả học đều thống
nhất ở
Việt Nam ta mỗi thế hệ trung b́nh là 23,5 năm (Phương Tây là 25 năm).
V́ vậy cứ
nhân số thứ tự của đời hiện nay với 23,5 năm, ta có thể tạm biết vị đệ
nhất thế
tổ ấy đến Quảng Nam vào năm nào. Ví dụ như gia phả họ Huỳnh (Hoàng)
làng Xuân
Đài (Điện Bàn Quảng Nam) ghi rằng:" Niên hiệu Hồng Đức năm thứ 30 (thực
ra
là Hồng Đức nhị niên) đánh lấy Chiêm Thành mới đặt ra Quảng Nam đạo
thừa tuyên
và ông Thỉ tổ của chúng ta (người tỉnh Hải Dương) di cư vào Nam từ thuở
đó...lập nên cơ nghiệp lưu hạ đến nay đă hơn 10 đời." Gia phả này viết
năm
Tự Đức 34, tức 1881, lui về trước 10 đời tức là 235 năm, vậy ông Thỉ tổ
ḍng họ
này vào Quảng nam khoảng năm 1646, cách Lê Thánh Tông b́nh Chiêm đến
175 năm,
tức hơn 7 thế hệ! Rơ ràng họ Huỳnh làng Xuân Đài khó có thể phản đối
lập luận này.
Con số 1646 của họ Huỳnh cũng là một con số khá lư thú và chúng ta sẽ
trở lại
con số này một lần nữa sau này.
Trước nay chúng ta thường nghĩ
rằng lịch sử Nam tiến của người Việt nam trải
dài suốt từ thời nhà Lư đến các vua Nguyễn; các năm 1306, 1471 chỉ là
những cột
mốc đánh dấu cái ḍng chảy rất đều, không ngừng nghỉ của các đoàn người
Nam
tiến. Thực ra nếu nh́n kỹ vào từng giai đoạn ta sẽ thấy cái ḍng chảy
ấy không
đều như ta nghĩ. Nó có những lúc dữ dội để chiếm hữu, lúc lắng lại để
định
h́nh, lúc th́ nếp ăn nếp ở ngôn ngữ phong tục thiên về Chàm, lúc th́
chuyển hẳn
sang Việt. Ở đây chúng tôi thử đưa ra một cách phân kỳ để thử xác định
mỗi giai
đoạn có ǵ khác nhau. Dĩ nhiên sẽ có người không đồng ư, có cách phân
kỳ khác,
nhưng như thế cũng không hẳn là nó không cần thiết để thử một
lần.
1/. Trước 1306 những ấn tượng về
nhau.
Trước 1306, khi địa giới c̣n ở ngoài đèo
Ngang, th́ người Việt cũng đă nhiều
lần đặt chân lên vùng đất phiá Nam Hải Vân này.
Trước thế kỷ
10 kinh đô Chiêm Thành là vùng Trà Kiệu, thuộc xă Duy Sơn, huyện
Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam hiện nay. Giai đoạn này về trước Chiêm Thành
là một
quốc gia hùng mạnh, họ nhiều lần đánh ra bắc đèo Ngang, lúc này thuộc
nhà
Đường, và dĩ nhiên bắt rất nhiều tù binh người Việt mang về. Ít nhiều
những tù
binh này tạo được một cái nh́n quen thuộc cho những cư dân Chiêm vùng
kinh
thành và điều này sẽ khiến người lao động Chiêm Thành, tức những dân
quê ít
học, ít quan tâm đến chính trị không cảm thấy quá sợ hăi khi những đại
quân
Việt kéo đến sau này. Thậm chí ngay từ đầu những năm lập quốc của quốc
gia
Chiêm Thành, một người Giao Châu (Việt?) là Phạm Văn đă làm vua xứ này
và tạo
thành một vương triều thứ hai kéo dài gần 100 năm. Phạm Văn vốn người
Giao Châu
(lúc này thuộc Đường) có cơ hội sang Trung Quốc học hỏi nên lúc về Lâm
Ấp đă
giúp vua Lâm Ấp là Phạm Dật xây dựng cung điện, làm thành tŕ và khi
Phạm Dật
chết th́ Phạm Văn tự xưng lên làm vua Chiêm Thành. Quả thực trong mắt
của người
Việt th́ người Chiêm xa lạ, khó hiểu hơn nhiều so với người Chiêm nh́n
người
Việt. Điều này cũng dễ hiểu bởi bản sắc văn hoá của hai dân tộc, trong
khi
người Chăm vùng Quảng Nam nay quá đậm nét văn hoá Ấn Đo với những vị
thần khó
hiểu th́ người Việt vùng Thanh- Nghệ lúc thuộc Đường c̣n khá mờ nhạt
nét văn
hóa Trung Hoa, đời sống tâm linh khá hiền lành, đơn giản. Chính điều
này sẽ
khiến người Việt sau này (sau 1401) khi vào sống cạnh người Chiêm họ sẽ
không
gây cho người Chiêm những khó chịu, những áp lực tâm lư đến mức không
thể chung
sống mà phải bỏ đi.
Và khi Lê Đại Hành (Lê Hoàn) lên
ngôi rồi đem quân đánh Chiêm lần đầu tiên
trong lịch sử Việt Nam, năm 982 ông cũng đă đem quân vào đến kinh đô
Chiêm
Thành lúc này là Đồng Dương (huyện Thanh B́nh ngày nay) đóng quân ở đó
một năm
mới trở ra. Thậm chí một vị quan quản giáp của Lê Đại Hành là Lưu Kế
Tông đă
trốn ở lại khi đại quân kéo về rồi tự xưng làm vua nước Chiêm Thành cai
trị
vùng đất miền bắc nước này. Sau cuộc thất bại này người Chiêm dời kinh
đô vào
Đồ Bàn. Bao nhiêu binh lính người Việt cùng với Lưu Kế Tông ở lại sau
sự kiện
982? Một năm đóng quân ở đất này chuyện ǵ xảy ra giữa hàng vạn binh
lính và
dân Chiêm bản xứ? Lưu Kế Tông làm vua có tạo ra một sự ưu đăi nào đó
cho những
người Việt Kiều?
Năm 1020 Lư thái Tổ cử người đi đánh Chiêm
Thành nhưng chỉ đến Bố Chính, Quảng
B́nh ngày nay. Năm 1044 Lư Thái Tông dẫn 12 vạn quân đánh thẳng vào đến
sông
Thu Bồn, chém đầu vua Chiêm là Sạ Đẩu ở đây rồi dẫn đại quân về Đồ Bàn,
cho sứ
đi khắp các nơi vỗ yên, phủ dụ dân chúng Chiêm Thành. Tầng lớp thượng
lưu, giáo
sĩ, chính trị hẳn đă bị chú ư thu gom, trừng phạt nhưng đa số dân trong
các xóm
làng là đối tượng của các cuộc phủ dụ này. Năm 1069 Lư Thánh Tông phạt
Chiêm
lần thứ hai, bắt vua Chiêm là Chế Củ giải về Thăng Long. Chế Củ phải
xin dâng
ba châu Bố Chính, Địa Lư, Ma Linh để được tha. Biên giới Đại Việt lúc
này là
Quảng B́nh và một phần Quảng Trị bây giờ.
Từ đó đến
1306, tức 237 năm, không có cuộc tiến đánh nào của người Việt. Một
phần do hợp tác đối phó với nhà Nguyên nên mối quan hệ Việt Chiêm khá
tốt, thậm
chí vua Trần Nhân tông đă vân du, một chuyến du lịch đến Chiêm Thành,
lúc hữu
hảo đă vui miệng , hay thực sự kính trọng vua Chiêm, hứa gả công chúa
Huyền
trân cho vua Chiêm là Chế Mân. Vua Chiêm dâng hai châu Ô, Lư làm sính
lễ. Nhiều
người cho rằng hai châu này thực ra đă thuộc về Việt. 237 năm không
chiến tranh
(thực ra là có nhưng chỉ là những cuộc cướp bóc của những toán thổ phỉ,
cướp
biển mà người Chiêm thời nào cũng có, thâm chí ở biển Đông và vịnh Thái
Lan bây
giờ cũng không thiếu) đủ sức, đủ thời gian để người Việt lấn dần từng
bước dưới
sự hổ trợ của những người Việt vào trước như đă nói. Cái sự dâng hai
châu Ô, Lư
của Chế Mân để lấy được một người đẹp là chuyện lịch sử nhân loại ít
thấy. Tuy
vậy ta vẫn có thể hiểu được hành động này qua trường hợp tương tự của
Mạc Đăng
Dung khi cổ buộc dây thừng, đi chân không đến phủ phục trước mạc phủ
quân Minh
xin hàng và dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương,
La Phù.
Thực ra theo "Đại Việt Địa Dư Toàn Biên" th́ 6 động ấy chưa bao giờ
thuộc về Việt, năm Tuyên Đức thứ 2 người các động ấy làm phản, về với
Giao Chỉ.
Nay nhà Mạclấy đất của họ mà trả cho họ, đó là một động tác chính trị
và nhà
Minh cũng chỉ cần cái danh ấy để không phải động binh lúc này đang rất
khó khăn
với quân Thanh. Chế Mân hẳn biết rằng so sánh tương quan lực lượng sẽ
không bao
giờ giữ được Ô, Lư nữa chi bằng làm thế để tăng mối ḥa hiếu may ra giữ
yên
được vùng đồng bằng Quảng Ngăi trở vào trù phú hơn nhiều so với vùng
Thừa
Thiên, Quảng Trị.
II/ 1306-1402 GIAI ĐOẠN
TIỀN ĐỀ:
Nhưng lịch sử không như Chế Mân
nghĩ, chỉ một năm sau, vụ giải thoát công chúa
Huyền Trân đă khiến người Chiêm nổi giận, họ liên tục quậy phá vùng
biên giới
đến mức 5 năm sau ngày cưới, vua Trần Anh Tông đă thân chinh chiếm đánh
Chiêm
Thành. Toàn bộ Chiêm Thành trở thành một Châu của Đại Việt. Vua nhà
Nguyên phản
đối nhưng vua Trần vẫn tự cho ḿnh có quyền tông chủ đô hộ trên đất
Chiêm
Thành, và cũng làm nhiệm vụ là một tông chủ thật sự: năm 1313 Tiêm La
lấn cướp
Chiêm Thành vua Anh Tông cử người đem binh đi ứng cứu Chiêm Thành. Nửa
sau thế
kỷ 14 này th́ Chiêm Thành phát triển cực mạnh và họ đẩy các cuộc giao
chiến ra
đến tận vùng sông Mă Thanh Hóa.
Không thể t́m thấy
một sử liệu nào nói về chuyện người Việt đến ở vùng đất
Quảng Nam nay,tức nam Hải Vân, trong suốt giai đoạn 100 năm này
(1306-1402).
Chỉ qua các mối quan hệ của chính quyền hai nước được sử ghi lại chúng
ta ít
nhiều nghĩ rằng giai đoạn này dầu sao cũng vẫn có các nhóm tù binh Việt
đă có
mặt nơi này, nhất là giai đoạn 30 năm dưới thời Chế Bồng
Nga(1360-1390). Giai đoạn
này nếu có những người Việt sinh sống ở đây th́ chắc chắn mọi nếp sống,
sinh
hoạt của họ đều phải theo Chàm. Giai đoạnb này chủ yếu là sự định h́nh
đi vào
ổn định vùng Thanh Hóa, bắc Hải Vân. Sau cái chết của Chế Bồng Nga,
Chiêm Thành
loạn lạc. Hồ Qúy Ly đem quân tiến đánh và chúa Chiêm là Ba Đích Lại xin
dâng
Chiêm Động, trọn tỉnh Quảng Nam ngày nay cho Đại Việt. Hồ Qúy Ly bắt ép
phải
dâng nộp cả động Cổ Lũy, trọn tỉnh Quảng Ngăi ngày nay. Nhà Hồ chia đất
ấy
thành bốn châu là Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và đặt người cai
trị.
Giai đoạn này có một số sự kiện đáng chú ư nếu
muốn từ đó lần ra các mối quan
hệ để có thể giải thích được ít nhiều các vấn đề thiếu cứ liệu sau
này:
1/ Người Chiêm Thành nào đi th́ cho đi. Người ở
lại th́ bổ làm quan (Đại Việt
Sử Kư Toàn Thư, năm 1402- SKTT 1402).
2/ Mộ người có của ở Hội
An, Thuận Hóa vào khai khẩn với một chính sách rất ưu
đăi nhưng vô cùng nghiêm khắc, buộc phải thích tên châu nơi đến vào
cánh tay
để
xem như không c̣n đường rút về. Năm sau cho thuyền chở vợ
con đi theo nhưng
giữa đường bị băo đánh ch́m. Tất cả đều chết. (SKTT 1403)
3/
Người Chiêm Thành không có họ. Ai có họ là người Việt đến sau. (Việt sử
xứ
Đàng Trong của Phan Khoang, trang 89. Chưa rơ Phan Khoang dẫn ở
đâu)
4/ Ngoại trừ một số họ Chiêm ghi theo âm Hán đọc thành
Phan, Phạm, Đặng th́ Hồ
Qúy Ly c̣n ban cho họ Đinh với một số người Chiêm hàng phục. (SKTT
1397)
Những sự liệu này cho thấy cái quan điểm cho
rằng khi Việt đến th́ ngưới Chiêm
rút đi ḥan toàn là không đúng. Không có chuyện chém giết đến không c̣n
một
người ở đây, thậm chí trong toàn bộ lịch sử. Ai đi th́ cho đi, ai ở th́
bổ làm
quan. Dĩ nhiên những làng chài, làng nông nghiệp ít học là cái mà các
sử quan
thường cho là hạ nhân th́ không bàn đến. Người Chiêm Thành không có họ,
ai có
họ là dân Việt mới đến sau cho thấy cái h́nh ảnh xă hội lúc ấy. Có
nghĩa là
không có vấn đề ǵ lớn đối với chuyện những làng Việt sống cạnh những
làng
Chiêm, không có mối thâm thù nào lớn giữa người Chiêm và người Việt.
Thậm chí
một tướng Việt là Nguyễn Rỗ cai trị người Chiêm nhưng khi nhà Hồ tan,
Nguyễn Rỗ
mâu thuẫn nội bộ dẫn quân và gia quyến sang Chiêm Thành, Chiêm Thành
vẫn cho Rỗ
làm quan to. Điều này nó chứng tỏ khi người Chiêm chiếm trở lại đất
trước đó
người Việt di dân đến họ cũng không xua đuổi những Việt Kiều này. Chiếu
b́nh
Chiêm của Lê Thánh Tông sau này có nêu lư do"đàn ông, đàn bà của ta nó
bắt
làm nô lệ; tù nhân , phạm nhân của ta nó hết thảy bao dung..." th́ ta
hiểu
đó chỉ là một lư do, nhưng ngay cả trong trường hợp đó là sự thật đi
nữa th́ sự
bao dung của Chiêm Thành đối với kẻ tù nhân, phạm nhân Đại Việt vẫn cho
ta thấy
người Việt sống ở vùng này không đến nổi bị bài xích xua đuổi cho
lắm.
Sau này,sau 1471, vua Lê Thánh Tông cũng lại có
một sắc chỉ về việc xét họ tên
với bọn người Chiêm. Và đến một lúc những người Chiêm không có họ ấy
bắt buộc
phải mang một họ nào đó là Đinh, Lê, Lư, Trần, Phan, Nguyễn... để vào
sổ hộ
tịch lại là một chuyện quan trọng nữa mà chúng ta cần phải bàn
đến.
III/ 1402-1471 ĐĂ XẢY RA QUÁ TR̀NH
CHĂM HÓA RỒI SAU ĐÓ MỚI VIỆT HÓA.
Có thể
nói rằng sau 1402 với những cuộc di dân rầm rộ dưới triều Hồ Hán Thương
vùng Quảng Nam nay, người Việt đă đến ở và không phải bỏ chạy v́ những
cuộc
phản công đ̣i đất trở lại của Chiêm Thành khi quân Minh đến hổ trợ cho
Chiêm
Thành lấy lại đất cũ. Chính quyền Chiêm Thành lấn ra trở lại tới vùng
Thuận Hóa
( bắc Hải Vân) dưới thời thuộc Minh, dân Chiêm số người bỏ đi cũng trở
lại quê
hương bản quán, nhưng các di dân Việt đă vào không phải v́ thế mà bỏ
đi. SKTT
chép "Đến khi Chiêm Thành cất quân thu lại đất cũ dân di cư sợ chạy tan
cả". Tất nhiên là như vậy rồi nhưng ngược lại, trường hợp Nguyễn Rỗ
được
Chiêm cho làm quan to cho phép ta h́nh dung t́nh h́nh không đến nổi khó
khăn
lắm đối với các Việt kiều, mặc dù Nguyễn Rỗ đă từng cai trị họ.
Gia
phả họ Hồ ở Cẩm Sa, Điện Nam, Điện Bàn là một ví dụ. Gia phả này đă
chép được
vị thủy tổ ḍng họ này đă vào Quảng Nam từ thời đó, dưới triều Hồ Hán
Thương.
Con cháu đến nay cũng đă đến đời thứ 25-26. Đây có phải là một trường
hợp đặc
biệt? Những cuộc điều tra là không khó và chúng
tôi tin rằng đây không phải là trường hợp duy
nhất.
Suốt từ đó, 1402, cho đến 1446 th́ Nam Hải vân
hoàn toàn dưới sự cai trị của
người Chiêm, vùng chịu nhiều cảnh binh đao là Hóa Châu, vùng Quảng
Trị-Thừa
Thiên ngày nay. 44 năm yên b́nh đối với vùng Quảng Nam. 44 năm hoàn
toàn không
có những di dân mới. Đă có hai thế hệ người Việt lớn lên bên cạnh người
Chiêm,
những cuộc hôn nhân giữa hai dân tộc chắc chắn là nguồn mối của sự tồn
tại.
Những người Việt có thể phải nói tiếng Chiêm ngoài xă hội nhưng trong
gia đ́nh
những con dâu, con rể người Chiêm có thể cũng phải nói tiếng Việt.
Người Việt
nói tiếng Chiêm không thể giống như người Chiêm và dĩ nhiên người Chiêm
nói
tiếng Việt cũng chẳng giống như người Việt vùng Thanh Hóa- Nghệ An. Dĩ
nhiên
giai đoạn này tiếng Chiêm là ngôn ngữ chính thống của vùng này. Đến
1446 th́
quân đại Việt đánh một trận lớn đến tận Chà Bàn (Quy Nhơn), bắt vua
Chiêm là Bí
Cai về Thăng Long. Vua Lê Nhân Tông là một ông vua nhân từ, bao nhiêu
tù binh
ông đều thả sau khi làm lễ cáo thắng trận ở Thái Miếu. Chính sự bao
dung của Lê
Nhân Tông trở thành điều quyết định cho số người Chiêm không chọn con
đường di
tản sau 1471 là đáng kể.
Giai đoạn 70 năm, 1402-1471
này là một giai đoạn lư thú đối với sự tiếp biến
văn hóa Chàm Việt. Nếu 44 năm đầu ở đây diễn ra quá tŕnh Chàm hóa số
người
Việt đă đến dưới thời nhà Hồ th́ 25 năm cuối quá tŕnh Việt hóa diễn ra
trên cơ
sở hỗ trợ của những Việt kiều vào trước. Chúng tôi nghĩ rằng chính nhờ
giai
đoạn chuyển tiếp này đă không tạo nên một cú sốc tâm lư đối với những
người
Chàm ở vùng này. Xin nhắc lại là lúc ấy kinh đô đă ở tận Chà Bàn, Quy
Nhơn nay,
những người Chàm ở lại vùng Quảng Nam sau khi kinh đô chuyển đi xa như
thế hẳn
chỉ là những xóm làng chài lưới, nông nghiệp không quan tâm lắm đến
chính trị.
Cuộc tiến đánh sử chép khá hiền lành năm 1446 có lẽ không gây nên một
cú sốc
khiến họ phải tất cả cuốn gói ra đi. Đây là một tiền đề để những di dân
sau
1471 đến vùng này không phải là đến vùng đất trắng không bóng người. Đó
là những
giả định nhưng quả thật khó mà h́nh dung mọi chuyện khác đi. Với thời
gian chắc
chắn rằng sẽ không khó để t́m đủ được những chứng cứ để chứng minh cho
những
giả định ấy. Tác giả B́nh Nguyên Lộc không phải là không có cơ sở khi
viết công
tŕnh "Nguồn gốc Mă Lai của người Việt". Chúng tôi nhận thấy ở đó
thực sự có những bằng chứng thuyết phục, ít ra là xứ Đàng Trong chứ
không phải
cả nước Việt nam như B́nh Nguyên Lộc cố chứng minh. Thậm chí những cuộc
hôn
nhân chồng Việt vợ Chàm giai đoạn này rất phổ biến, phổ biến đến mức
1499 SKTT
chép rằng: " Kể từ nay, trên từ thân vương, dưới đến dân chúng, đều
không
được lấy đàn bà con gái Chiêm Thành làm vợ (chiếu dụ tháng 8 ngày 9 năm
Cảnh
Thống thứ 2)". Dĩ nhiên lấy đó làm bằng chứng không lấy vợ Chàm th́
thật
ngớ ngẩn, đó chẳng qua là v́ người ta lấy vợ Chàm quá nhiều, thành
phong trào
từ thân vương đến dân đen, nên mới có cái chiếu dụ như thế, để cho
phong tục
được thuần hậu!
IV/. 1471-1671, 200 NĂM CỦA
NHỮNG LÀN SÓNG DI DÂN, NGƯỜI CHĂM Ở LẠI HAY RA
ĐI?
Đến năm 1471, cái mốc quan trọng và
dứt khoát để chấm dứt những cuộc giằng co,
lấn qua lấn lại giữa Việt và Chiêm th́ những cuộc di dân là không thể
kiểm soát
được nữa. Ngoài số sắc chỉ năm 1476 quy định "tội nhân bị tội lưu đày ở
châu gần th́ sung làm quân vệ Thăng Hoa, ở châu ngoài th́ sung làm quân
vệ Tư
Nghĩa, những kẻ được tha tội chết th́ sung quân vệ Hoài Nhân", chúng ta
c̣n hiểu rằng những năm mất mùa đói kém nhân dân từ Thanh Hóa trở vào
cũng sẵn
sàng lên đường vào Nam, vụ đại hạn mất mùa từ Nghệ An ra Bắc năm 1608
là một ví
dụ. H́nh tượng ông Ba Bị có lẽ h́nh thjành trong giai đoạn này. Sách"
Phủ
Tập Quảng Nam Kư Sự" , viết vào thế kỷ 16 có nói quân của Bùi Tá Hán
nhận
lệnh diệt quân mạc ở Cổ Lũy, ông dẫn quân vào cho nghỉ ở cù lao Ré rồi
giả làm
đoàn người di cư, lén đổ bộ lên bờ và tấn công. Như thế ta hiểu là
những đoàn
người di cư vào năm 1545 ấy là đông đúc đến dường nào, nó đủ sức để một
đạo
quân cải trang lẩn trong ấy.
Những cuộc di dân như
thế kéo dài được cho đến năm 1631, năm chuá Nguyễn cho
xây lũy Trường Dực, chính thức chia đôi Nam Bắc, có nghĩa không c̣n di
dân tự
do. Những ḍng họ nào di dân vào giai đoạn này cho đến nay đều có số
đời từ 15
(1631) cho đến 21 (1471). Điều này cũng đúng với thực tế đối với đa số
các gia
phả ở Quảng Nam bây giờ. Những gia phả có số đời ít hơn đều có vấn đề
để nói và
chúng ta sẽ bàn đến kỹ hơn. Điều quan trọng nhất cần nhấn mạnh ở giai
đoạn này
là số lượng người Chàm ở lại là nhiều hay ít? 100 năm sau khi Lê Thánh
Tông
b́nh Chiêm, sách"Ô châu cận lục" mô tả vùng Quảng Nam-Thừa Thiên ngày
nay: nói tiếng Chiêm có thổ dân làng La Giang, mặc áo Chiêm có con gái
làng
Thủy Bạn, nhiều xă c̣n giữ thói dâm phong mây mưa, thói quen cổ truyền
cũng đă
lâu lắm. Sách"Phủ Tập Quảng Nam kư sự" đă nói kể chuyện ông Bùi Tá
Hán trong những năm 1545-1568 có những chính sách với người Chiêm như:
lập ở
vùng biên giới Tuy Ḥa nay, ba đồn lớn ở đó lập ba nơi giao dịch cho
phép người
Kinh-Chàm mang các thứ tới đây buôn bán. Người Chàm nếu có ai ra vào
cửa khẩu
vùng biên để thăm bà con thân thuộc th́ đều phải tŕnh báo rơ ngày giờ
với các
quan đồn. Điều này cùng với mô tả trong" Ô châu cận lục " cho thấy
khu vực người Chiêm c̣n ở lại là khá rộng, trải từ Quảng B́nh tới Phú
Yên, Tuy
Ḥa. Dĩ nhiên t́nh h́nh bây giờ không c̣n giống như hồi 1402-1471, họ
buộc phải
nói tiếng Việt khi giao tiếp ngoài xă hội. Đó có phải là tiền đề của
giọng
người Quảng Nam bây giờ như giáo sư Trần Quốc Vương nói? Số lượng họ là
bao
nhiêu? Nhiều hay ít? Họ chuyển thành Việt như thế nào? Không ai biết
nhưng có
một số điều khiến ta có thể nghĩ rằng họ rất nhiều chứ không phải là
thưa thớt như
lâu nay ta nghĩ.
1/. Người Việt thời ấy ở ngoài bắc
ăn bận như thế nào ta có thể hiểu được khá
rơ qua các sắc chỉ về ăn bận của các triều vua mà SKTT ghi lại khá rơ.
Nhưng ăn
bận như Cristophoro Borri mô tả trong "Xứ Đàng Trong năm 1621": Phụ
nữ mặc tới 5,6 váy lụa trơn, cái nọ chồng lên cái kia, và tất cả có màu
sắc
khác nhau. Đàn ông th́ quàng một tấm rồi cũng thêm 5 hay 6 áo dài th́
quả thật
rất khó hiểu, khó h́nh dung. Trong khi đó y phục của các văn nhân, tiến
sĩ và
quan lại th́ rất quen thuộc và dễ hiểu như: họ choàng lên trên tất cả
một áo
dài đen. Họ c̣n khoác lên vai một thứ khăn. Vậy những tấm váy dân lao
động mặc
kia là ở đâu ra vậy? Bùi tá Hán cũng có một sắc lệnh cấm phụ nữ mặc
quần không
đáy nhưng đến thời Borri vẫn thế cho thấy lệnh ấy không hiệu quả mấy.
Và ở
"Ô châu cận lục" ở chương Tổng luận về phong tục, mục huyện Diện Bàn
cũng mô tả thật trùng khớp với Cristophoro Borri:" phụ nữ th́ để tóc
xỏa
xuống vai, có người để tóc dài chấm đất, càng dài càng được coi là đẹp.
Đàn ông
cũng để tóc dài như đàn bà, cho xỏa tóc tới gót chân và cũng đội nón."
Người ngoài Bắc không thế.
Thậm chí đến cuối thế kỷ
thứ 18, qua các bức vẽ của người phương Tây vẽ một
nhóm người An Nam ở Đà nẵng ta c̣n nhận ra y phục của người Đàng trong
rất
giống với những ǵ bây giờ người Chàm, Ninh Thuận đang mặc. Có thể kết
luận
được không rằng:" số lượng người Chàm ở lại đông đến mức đủ sức áp đặt
những thói quen ăn mặc, sinh hoạt, giọng nói cho những di dân mới
đến?"
Thậm chí chúng tôi c̣n ngờ rằng đây không phải
chỉ đơn thuần là sự tiếp thu cái
mới của người Việt như một số người bảo vệ quan điểm cho rằng người
Việt chỉ
tiếp thu một số yếu tố văn hóa của người Chàm ngoài ra không có ǵ
khác.( Ngay
cách này cũng bộc lộ mâu thuẫn: con người ta không thể tiếp thu cái ǵ
ở chỗ
trống không, người Việt không thể tiếp thu bất cứ điều ǵ nếu người
Chàm đều bỏ
đi cả, hoặc giả cứ gặp họ là đuổi đánh, mà cái tiếp thu dược th́ nhiều
lắm. Vậy
những làng người Chàm ấy biến đi đâu?), mà đó là những cộng đồng người
Chàm
nguyên vẹn 100% chỉ có điều họ không nói tiếng Chàm. Người Việt đến chỉ
là số
nhỏ, nhưng có quyền lực ḥa nhập trong đó. Dĩ nhiên cái tỷ lệ số lượng
Chàm -
Việt ấy nó không đồng đều, giống nhau từ vùng quê Trung Du, xứ biển
làng chài
với các khu thị tứ, dinh trấn, bến cảng. Đọc sử, đọc những ghi chép
đương thời
đều chỉ thấy người Việt. Những vùng quê như Tiên Phướ`c, Đại Lộc, Quế
Sơn...(những nơi có di tích Chàm) mọi chuyện có thể diễn ra một cách
lặng lẽ,
không tư liệu nào chép lại, nhưng dữ dội hơn nhiều. Sự tích tháp Bằng
An là một
ví dụ: Người Việt và người Chàm tranh đất, sau khi đă thỏa thuận nhất
trí tổ
chức một cuộc thi xây tháp trong một đêm, ai thua phải đi nơi khác.
Người Chàm
xây bằng gạch thật, người Việt làm một tháp bằng tre bồi giấy và đă
thắng.
Chúng tôi cũng đă đọc được một bản "Bắc địa tấu từ", một bản tâu gởi
triều đ́nh năm Lê triều Ất Hợi, 1455, kể chuyện xây tháp giành đất
khiến hơn
3300 người Chàm (cổ thổ nhơn) phải bỏ chạy vào núi. Tháp Bằng An được
xây dựng
từ năm 977 nên khó mà biết được hư thực bản tấu ấy như thế nào nhưng
qua đó và
một số bản tấu khác trong giai đoạn này(1446-1471) nó phản ảnh được cái
điều là
người Việt lấn đất không phải bằng gươm giáo, ít ra là trên chính
thống. Vậy
những làng người Chàm, cứ cho là họ bị đuổi lên vùng trung du, th́ sau
này họ
biến đi đâu? Và cái chiếu dụ tháng 8 ngày 9 năm Cảnh Thống thứ 2 ấy
không lẽ
làm ra để cấm cái chuyện không có?
Có người không
đồng ư với ư kiến cho rằng vùng đất Quảng Nam từ 1306 đến 1602,
năm Nguyễn Hoàng cho xây ở bờ bắc sông Thu Bồn dinh trấn Thanh Chiêm,
là có
tṛn 300 năm không chính phủ, là 300 năm giao lưu văn hóa Việt - Chàm
để h́nh
thành nên tính cách người Quảng Nam. Bằng chứng đưa ra là lúc nào cũng
có các
quan trấn thủ của nhà Lê ở xứ nầy như Bùi Tá Hán. Chúng tôi không phản
đối
nhưng nghĩ rằng cần phải phân kỳ ra trước 1471 và sau 1471 lúc có các
quan trấn
thủ th́ quyền lực của quan trấn thủ e cũng không được rộng khắp cho
lắm. Ở
Quảng Nam giỏi lắm là vùng Điện Bàn, Thăng B́nh khu vực dọc theo sông
Trường
Giang ven biển chứ lên đến Đại Lộc, Quế Sơn, Tiên Phước th́...Ngay cả
Bùi Tá
Hán th́ cũng được SKTT (1568) gọi là thổ quan Quảng Nam cho thấy nền
hành chánh
ở đây cũng lỏng lẻo lắm, nó không như sau 1602. Chính sự lỏng lẻo ấy là
điều
kiện cần có để sự giao lưu, giao thoa, tiếp biến v.v...diễn ra một cách
tự
thân, hồn nhiên và sâu đậm, đủ để trở thành một bản
sắc.
V/ SAU 1671: NHỮNG D̉NG HỌ ÍT HƠN 13
ĐỜI LÀ Ở ĐÂU RA?
Đến năm 1648 có một đợt
lưu dân to lớn đông đến 30.000 trai đinh nam giới đổ
vào các thôn xóm Quảng Nam (bao gồm cả Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên).
Đó là
số tù binh của Chúa Nguyễn bắt đưộc của Chúa Trịnh trong cuộc chiến ở
cửa biển
Nhật Lệ. Có tài liệu nói số tù binh chỉ là 3.000. Nhưng số lượng thế
nào chăng
nữa th́ chắc ở đó cũng có đủ tất cả các họ của Người Việt, và đây là
những
" Thủy Tổ" cuối cùng của các ḍng họ Quảng Nam. Từ đó đến 1671 Trịnh-
Nguyễn nhiều lần đem quân đánh ra hoặc đánh vào, có thể giai đoạn này
có thêm
một ít tù binh nữa nhưng khôngthấy sử chép thành vấn đề. Ông tổ của nhà
Tây sơn
cũng là tù binhtrong những trận giao chiến qiai đoạn này. Và đến 1671
th́ hai
họ thôi chiến tranh, lấy sông Gianh làm ranh giới Nam
Bắc.
Biên giới Trịnh -Nguyễn là biên giới quân sự,
không được qua lại. Năm 1716 Chúa
Nguyễn Phúc Chu mật sai hai người khách buôn Phước Kiến là B́nh và Qúy
(không
rơ họ) sang Quảng Tây rồi qua ngơ Nam Quan mà vào Thăng Long để xem xét
t́nh
h́nh Đàng Ngoài. Vào đến Nghệ An th́ không thể đến Bố Chính được v́
trấn thủ là
Lê Th́ Liêu cấm ngặt, ai không có giấy hộ chiếu của các trấn, ty cấp
th́ không
được vào châu Bố Chính. Có nghĩa là, như a thường nói, một con chuột
cũng không
lọt. Thâm chí đến 1738 Lê Duy Mật là con vua Dụ Tông ly khai chống
Trịnh, xin
chúa Nguyễn mở cửa biên giới đón nhận rồi hợp lực chống Trịnh. Lời thư
rất tha
thiết nhưng chúa Nguyễn chỉ hậu đăi sứ giả rồi từ khước việc mở cửa
biên giới.
Rơ ràng suốt giai đoạn 1671 về sau những cuộc di dân là chấm dứt, tù
binh cũng
không c̣n. Có thể có một số dân vượt biên bằng đường biển, đường núi
nhưng chắc
chắn số lượng không đáng kể và không đủ để tạo nên vấn
đề.
Sau đó không có cuộc di dân nào nữa cho đến khi
Tây Sơn thống nhất đất nước rồi
nhà Nguyễn lên ngôi. Những cuộc di dân sau Tây Sơn không c̣n dừng lại ở
vùng
Quảng Nam nữa.
Có một câu hỏi cực lớn được đặt ra
là: những người miền Bắc cuối cùng vào tạo
nên các ḍng họ là những năm 1648-1671 đến nay tṛn 350 năm. Cứ 23,5
năm là một
đời th́ đến nay ít nhất cũng được 14 đời. Vậy những ḍng họ có số đời
10-12,
thậm chí 8-9 là ở đâu ra?
Số ḍng họ có số đời như
thế, dưới 13 ở Quảng Nam lại khá nhiều, thậm chí rất
nhiều. Lư do đưa ra có thể là số ông bà "thỷ tổ" vào trước 1671 ấy ít
học, không ghi chép ǵ. Đến nhiều đời sau khi con cháu có người có điều
kiện
học hành th́ mới tiến hành ghi chép làm gia phả. Dĩ nhiên là vậy nhưng
đi